Kinh nghiệm: 1 năm
Kinh nghiệm: 1 năm
Phẫu thuật lấy dị vật, thông tiểu, mổ sỏi niệu, phẫu thuật viêm tử cung, chỉnh hình xương, nối xương gãy, triệt sản,... trên chó, mèo.
Lịch sử hình thành Bệnh viện Bỏng quốc gia
Khoa Bỏng được thành lập trên cơ sở Khoa Ngoại dã chiến - Viện Quân y 103 do bác sĩ Lê Thế Trung làm chủ nhiệm khoa. Nhiệm vụ chính của khoa bỏng là điều trị, huấn luyện và nghiên cứu khoa học về bỏng, đặc biệt là bỏng chiến tranh.
Năm 1991, Viện Bỏng Quốc gia được thành lập, mang tên của đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, gọi tắt là Viện Bỏng Lê Hữu Trác trên cơ sở phát triển từ khoa Bỏng (BM3), Viện Quân y 103.
Năm 2018, Viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác đã phát triển thành bệnh viện chuyên khoa đặc biệt và được đổi tên thành Bệnh viện Bỏng quốc gia với quy mô 500 giường bệnh, trong đó có 150 giường điều trị cho quân nhân và 350 giường điều trị cho nhân dân.
Từ khi thành lập, xây dựng và phát triển Viện bỏng Quốc gia đã tích cực củng cố hệ thống cơ sở y tế với nhiều phân khoa. Hiện nay, tại đây có rất nhiều chuyên khoa đang thực hiện tốt công tác chẩn trị như: khoa điều trị, dược, dinh dưỡng, chẩn đoán hình ảnh, cận lâm sàng, phòng khám bệnh, gây mê, phẫu thuật tạo hình, vật lý trị liệu và phục hồi chức năng, Khoa điều trị bỏng người lớn, trẻ em, hồi sức cấp cứu.
Hàng loạt kỹ thuật mới đã được triển khai tại Viện Bỏng, như: Kỹ thuật siêu lọc máu, kỹ thuật ô-xy cao áp, kỹ thuật ghép mắt da lưới với độ co giãn lớn, kỹ thuật ghép da kiểu mảnh siêu nhỏ, kỹ thuật giãn vạt da, kỹ thuật vi phẫu…
Bên cạnh đó, Viện còn nghiên cứu, kế thừa các bài thuốc y học dân tộc cổ truyền kết hợp với y học hiện đại trong điều trị bỏng, triển khai, ứng dụng nhiều kỹ thuật mới, hiện đại trong điều trị các ca bỏng nặng và sẹo di chứng sau bỏng.
Nếu như trước đây, các bệnh nhân bị nhiễm khuẩn máu, bỏng đường hô hấp, suy thận cấp, sốc nhiễm khuẩn, nhiễm độc, chảy máu tiêu hóa... hầu hết tử vong thì đến nay, phần lớn số họ đều được cứu sống nếu kịp thời được Viện Bỏng Quốc gia chữa trị.
Viện đã cứu sống được bệnh nhân người lớn có diện tích bỏng nông đến 90% diện tích cơ thể và bỏng sâu 85% diện tích cơ thể; đã cứu được bệnh nhân trẻ em bỏng nông đến 70% diện tích cơ thể và bỏng sâu là 63% diện tích cơ thể. Nhiều bệnh nhân bỏng nặng có biến chứng nặng như: nhiễm khuẩn huyết, bỏng hô hấp, suy thận cấp, chảy máu tiêu hóa... đã được cứu sống.
Bệnh viện Bỏng quốc gia điều trị bệnh gì?
Là tuyến cuối điều trị bỏng của cả nước, bệnh viện có nhiều thế mạnh khi điều trị:
- Bệnh nhân bỏng do mọi nguyên nhân, đặc biệt là các bệnh nhân bỏng vừa, nặng, rất nặng.
- Bệnh nhân bị di chứng sau bỏng, sau chấn thương hay dị tật bẩm sinh...cần điều trị phẫu thuật tạo hình và thẩm mỹ.
- Bệnh nhân bỏng và di chứng sau bỏng, sau chấn thương cần điều trị vật lý và phục hồi chức năng.
- Bệnh nhân bị vết thương phần mềm do mọi nguyên nhân: tai nạn giao thông, tai nạn lao động, rắn cắn, vết thương hoả khí, vết thương do các bệnh lý nội ngoại khoa...
- Đặc biệt có ưu thế trong điều trị vết thương mạn tính do mọi nguyên nhân như: loét do tiểu đường, loét do tỳ đè, do thiểu dưỡng, loét do xạ trị ung thư, loét do u máu, loét do viêm tắc động tĩnh mạch, loét do các bệnh chuyển hoá, các bệnh nội khoa, các bệnh da liễu, miễn dịch, dị ứng thuốc, suy tĩnh mạch...
- Phẫu thuật thẩm mỹ: Nâng ngực, đặt túi mông, hút mỡ bụng, lấy mỡ bụng và tái tạo thành bụng, nâng mũi, làm mắt hai mí, tạo má lúm đồng tiền...
- Bệnh nhân da liễu và da thẩm mỹ: Nám da, nhăn da, lão hoá da, nốt ruồi, hạt cơm, u sắc tố, u tuyến mồ hôi...bằng các công nghệ laser hiện đại (laser Co2; laser YAC; laser màu), công nghệ tế bào và tế bào gốc.
- Điều trị bằng vi phẫu thuật trong các trường hợp cần tạo hình phức tạp.
Ngoài ra, bệnh viện còn cung cấp các dịch vụ khác:
- Khám kiểm tra và tư vấn sức khoẻ cho mọi đối tượng.
- Làm các xét nghiệm huyết học, sinh hoá, vi sinh vật... bằng thiết bị mới, hiện đại và công nghệ cao.
- Chẩn đoán hình ảnh: X quang, siêu âm với thiết bị hiện đại, mới, chuyên gia có kinh nghiệm.
- Khám giám định y khoa sau bỏng.